LỜI MỞ ĐẦU
Với
mục đích muốn nói lên đôi nét về sự hình thành và phát triển của Giáo Xứ An
Nhơn qua những công lao đóng góp xây dựng của các vị Linh mục chính xứ, các
Linh mục, các tu sĩ nam nữ, những vị ân nhân, những bậc cha ông đã sáng lập lên
xứ đạo An Nhơn cách nay hơn 49 năm. Với thời gian 49 năm ngắn ngủi (1965 – 2014)
mà giáo xứ đã trải qua những bước thử thách ban đầu gian khó, nhưng cũng vượt
qua được để có thành quả ngày hôm nay. Đó là nhờ sự khôn ngoan, tài trí của các
vị lãnh đạo tinh thần, với sự góp công, góp của, góp sức của nhiều người, nhiều
thế hệ…
Riêng
những vị cao tuổi, các vị đã có dịp tham gia đóng góp công sức, đã phải chịu đựng
và vượt qua các thời kỳ khó khăn xưa, hôm nay có dịp để quý vị được ôn lại những
kỷ niệm xưa mình đã sống, đã đóng góp và nhận ra rằng đây thật sự là một hồng
ân Chúa ban.
Bốn
mươi chín năm thành lập Giáo xứ, xây dựng Thánh đường: những cột mốc đáng nhớ của
Giáo xứ An Nhơn. Đó chưa phải là thời gian dài đối với lịch sử một Giáo xứ,
nhưng nó cũng đủ để khẳng định với chúng ta về tình thương của Thiên Chúa.
Cách đây 49 năm, nói đến An Nhơn là
nói đến một địa danh không mấy tốt đẹp, là nói đến một mảnh đất in vết hằn tệ nạn
xã hội. Nhưng rồi nhờ hồng ân Thiên Chúa, một Giáo xứ đã thành lập, một Thánh
đường đã vươn lên, để tỏa sáng đánh tan những bóng đêm của “ thủa xa xưa” ấy,
những hồng ân quí giá này, đã được Thiên Chúa và Đức Mẹ Vô Nhiễm ban xuống qua
lòng mến Chúa , nhiệt tâm tông đồ, sự khôn ngoan sáng suốt, tinh thần dấn thân
phục vụ của các vị chủ chăn đầu tiên, đặc biệt của Cha Chánh xứ tiên khởi. Thêm
vào đó Chúa còn dùng sự cộng tác tích cực của quí Thầy, qúi Nữ tu, quí ân nhân
và đông đảo anh chị em giáo dân sẵn sàng hy sinh, đóng góp công của. Lớp người
này tiếp nối lớp người kia cùng chung sức tạo nên một gia sản, một truyền thống.
Cho dù có những lúc khó khăn, dòng chảy vẫn không ngừng lại, dẫn đến ngày hôm
nay.
Chính
tại thánh đường này, một tòa nhà vươn
cao trên các ngôi nhà chung quanh, nhiều thế hệ tín hữu nối tiếp nhau đến để sống
đức tin, thắp lên ngọn lửa đức mến qua những thánh lễ, những buổi cử hành phụng
vụ.
Qua
chiều dài lịch sử, thánh đường này là nơi biết bao tâm hồn sẽ đón nhận ơn tái
sinh và ơn giao hòa với Thiên Chúa, biết bao gia đình mới được gầy dựng và biết
bao người sau khi hoàn tất cuộc lữ hành trần thế được tiễn đưa tới nơi an nghỉ
cuối cùng.
Chính
trong ngôi thánh đường này lớp lớp người trưởng thành cũng như thanh thiếu niên
sẽ qui tụ lại để học hỏi lời Chúa, tìm hiểu về Giáo Hội, về con người để biết sống
làm người và làm con Chúa, đồng thời chuẩn bị hành trang cho những hoạt động
truyền giáo ở nhiều biên cương khác nhau.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH GIÁO XỨ AN NHƠN
QUA 49 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
(1965– 2014)
I.
AN
NHƠN ĐẤT XƯA : (1875 –
1945 )
Theo tài liệu còn lưu giữ tại Tòa Tổng
Giám Mục Sài Gòn, thì cách nay hơn 150 năm đã có họ đạo An Nhơn, trước cả họ đạo
Sao Mai và Thông Tây Hội quận Gò Vấp. Theo tiểu sử Thánh Phao lô Lê Văn Lộc
Linh mục tử đạo mà hiện nay xương Thánh còn đang lưu kính tại nhà thờ Đức bà
thì Thánh lộc đã sinh ra tại làng An Nhơn, Quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Định năm 1831.
Thêm hai tài liệu cụ thể nữa là : hai cuốn sổ Rửa tội và Thêm sức của họ đạo An
Nhơn xưa kia còn đề ngày 23/1/1875, hiện nay đang được lưu giữ tại phòng Truyền
thống của Giáo xứ.
Giáo dân thì không còn ai để kể lại họ
đạo và nhà thờ, nhưng với tài liệu nêu trên thì An Nhơn đã có xứ đạo và nhà thờ
từ lâu đời, ít nhất là từ năm 1859 do các Cha Thừa Sai Pháp xây dựng và được biết
sau này đã giao lại cho Cha Tiến, một Linh mục Việt Nam, phụ tá nhà thờ Đức Bà
đảm nhận, đó là khoảng thời gian từ 1940 trở về trước.
Năm 1945 nhà thờ, nhà Cha Sở bị tàn
phá vì chiến tranh, giáo hữu tản mát mỗi người mỗi nơi, mấy năm sau cùng không
xây dựng lại được, gia đình nào còn ở lại thì sáp nhập họ đạo Sao Mai hoặc
Thông Tây Hội và Thị Nghè.
Năm 1949 Quân đội Pháp đã chiếm khu vực
chung quanh kể cả khu vực nhà thờ để lập đồn binh ( trước giải phóng là khu vực
thành kho đạn, hiện nay là khu dân cư).
Năm 1945 vì thời cuộc, đất nước phải
chia hai, một số đông đồng bào Công Giáo thuộc các vùng Bùi Chu, Phát Diệm, Bắc
Ninh, Thái Bình, Hà Nội vv… vì sinh kế đã di cư vào Nam và định cư tại khu vực
Xóm Mới cũng thuộc xã An Nhơn. Nơi đây là một cánh đồng do người địa phương bỏ
hoang, nay được nhà nước bố trí thành lập các trại định cư, họ đã qui tụ lại
thành lập nên nhiều xứ đạo. Giáo dân buôn bán, trồng trọt, chăn nuôi mỗi ngày một
phát đạt đông vui,ổn định cả về tinh thần lẫn đời sống.
Tuy An Nhơn, là trung tâm xã của người
địa phương, đất rộng người thưa, đã có trụ sở Xã, có đình làng, có chợ, có trường
học công vv… nhưng đã không được những người Bắc Công giáo chọn để định cư vì họ
không muốn ở rải rác, mà muốn ở gom thành từng trại, từng Xứ để giúp đỡ, đùm bọc
nhau thông qua Linh mục lãnh đạo nơi đất lạ quê người. Đó là những lý do mà An
Nhơn không thể hình thành sớm được Giáo xứ như Xóm Mới.
An Nhơn là quê hương của Thánh Lộc tử
đạo, nhưng đã phải mất nhiều năm gián đoạn vẫn chưa xây dựng lại được giáo xứ…
Đã tưởng rằng trên mảnh đất đã nhiều năm khô cằn, với nhiếu sỏi đá, không còn
hy vọng sẽ có hạt giống nào nảy mầm nổi… Nhưng không, Chúa quan phòng và đã cho
xuất hiện biểu hiện nẩy mầm đức tin Công giáo tại đây, đó là vào năm 1963 khi
có một số gia đình tới đây lập nghiệp.
II.
KHÓ
KHĂN VÀ NIỀM TIN BAN ĐẦU ( 1963 – 1969 )
Họ có khoảng 13 gia đình Công Giáo tìm
đến định cư cho gia đình mình, họ tập trung ở 2 khu vực chính là: chung quanh
chợ và ngã ba Cây Dừa, họ chủ yếu sống kinh tế bằng buôn bán nhỏ và làm nghề tiểu
thủ công, không khá lắm, về mặt giữ đạo còn gặp nhiều khó khăn, vì họ không
chính thức thuộc Xứ đạo nào, họ đi lễ ở các nhà Thờ trên vùng Xóm Mới, con cái
họ không được sinh hoạt, học tập theo cộng đoàn Giáo xứ, không được học giáo lý
để Rước lễ, Thêm sức v.v…
An
Nhơn dần dần cũng thu hút được thêm người đến lập nghiệp, vì gần các trại binh
lớn thời đó như: Trường Quân Cụ, Trại Thiết Giáp, Pháo Binh, Cổ Loa vv… nhưng
quanh những nơi này không tránh khỏi những tệ nạn xấu kèm theo, nó đã biến một
vài khu vực của An Nhơn thành nơi ăn chơi tội lỗi khét tiếng. Trước tình hình
này càng thôi thúc người Công Giáo sống quá ít tại đây càng phải suy nghĩ… và họ
đã cùng bàn bạc, cùng bắt tay và cùng làm để xây dựng lại nhà Chúa mà cách đây
20 năm tại ngôi làng này đã có và đã bị phá đi vì chiến tranh.
Đầu
năm 1965, bức xúc vì những tệ nạn xấu mỗi ngày một lan rộng, ảnh hưởng không ít
đến con cháu mình, một số vị có tâm huyết bàn bạc cụ thể hơn, phải có một kế hoạch
làm ngay càng sớm càng tốt. Biến địa bàn quanh khu vực này thành đất lành. Họ
đã đi quyên góp được 80.000 đồng đủ mua một diện tích đất là 500 m2 ( hiện nay
là dãy lầu trường Hoàng Văn Thụ) để xây trên đó một nhà Nguyện .. Có đất nhưng
vẫn chưa xây được, họ lại phân công chạy đi khắp nơi từ : Tòa Tổng Giám Mục,
Cha Quản Hạt, các Cha, các Xứ lân cận thuộc Hạt Xóm Mới vv… tất cả các nơi trên
cũng chỉ giúp họ về mặt tinh thần : Cha xứ Hoàng Mai ( Cha Tấn) hứa : Khi nào
xây xong nhà Nguyện Cha sẽ nhận là họ lẻ
của Hoàng Mai và mỗi tuần Cha sẽ xuống dâng lễ ngày Chúa Nhật. Nhiều người
trong số họ đã chán nản đề nghị thôi không xây nữa, bán đất đi để trả tiền lại
những người đã đóng góp.
Thời
gian này Cha Tuyên Úy Trần Văn Thông thường sang dâng lễ ở nhà nguyện xã An Phú
Đông ( nay nhà nguyện này đã bị phá dỡ, gần ngã tư Ga Thạnh Lộc). Ông Nguyễn Hữu
Toan ( Hiền) được đề cử đi tiếp xúc xin Cha giúp, nghe qua biết được ý định của
các ông Cha rất vui vẻ nhận lời và còn đề nghị dẫn Cha đi xem đất ngay. Ý Chúa,
ý Cha, ý Giáo dân đều là một nên mọi công việc được tiến hành ngay sau đó,Cha đồng
ý sẽ lo liệu phần vật tư cần thiết.
Tháng
7/1965 ngôi nhà Nguyện 5 gian chính thức được khởi công, anh em có trách nhiệm
và giáo dân chung quanh đều ra phụ giúp, công việc tiến triển nhanh và rất thuận
lợi.
Trong
lúc nhà Nguyện đang còn xây dựng thì có Cha Trần Hoàng ( dạy Chủng Viện Thánh
Phao lô) đi ngang qua ghé vào thăm, qua
trình bày của vị đại diện, Cha rất hài lòng việc xây dụng một nhà nguyện tại
nơi này và hứa sẽ tới dâng Thánh lễ vào mỗi buổi chiều khi xong nhà Nguyện (
Cha Thông rất bận không thể dâng lễ thường xuyên).
Qua những ngày khó khăn, vất vả, ngày
hân hoan của mọi gia đình trong giáo họ đã tới. Ngày 8/12/1965, Quý Cha, Quý Tu
sĩ nam nữ và đông đảo giáo dân các Xứ đạo chung quanh, Quý ân nhân đã về dự lễ
“ Khánh thành và làm Phép nhà Nguyện”.
Ngoài số tiền các vị ân nhân hảo tâm dâng cúng trong
ngày khánh thành, Cha Thông còn giúp thêm để xây hai phòng học, xây thêm hàng
rào bao quanh nhà Nguyện. Có nhà Nguyện nhưng An Nhơn vẫn chưa được quyết định
là Giáo xứ của Địa phận, hai Cha Trần Văn Thông và Trần Hoàng vẫn thay đổi về
dâng thánh lễ hàng ngày.
Có được
hai phòng học, Mẹ Bề trên MTG Phát Diệm cử hai Dì xuống giúp dạy giáo lý và văn
hóa cho các em gia đình chung quanh.
An
Nhơn đời sống mỗi ngày một khá hơn, họ đạo sau khi có nhà nguyện, giáo dân mỗi
ngày một tăng thêm, các em nhỏ đã được học giáo lý, đã được Xưng tội Rước lễ lần
đầu, lãnh phép Thêm Sức … Việc Đạo đã đi vào nề nếp sáng chiều nơi nhà Nguyện
nhỏ bé đều có cất cao tiếng hát lời ca chúc tụng Chúa và Mẹ. Cuộc sống hàng
ngày cũng bớt dần khó khăn hơn.
Nhưng
nào ngờ, biến cố Tết Mậu Thân (2/1/1968) đã làm tan nát bao nhiêu nhà cửa khu vực
An Nhơn, nặng nhất là chung quanh nhà Nguyện ( Từ ngã ba Đức Hiệp đến ngã ba
Cây Dừa). Nhà Nguyện cũng bị bom đạn, làm hư hại nặng, hầu như chỉ còn lại có
gian Cung Thánh. Mới vỏn vẹn chưa đầy ba năm, giáo họ An Nhơn lại bắt tay làm lại
từ đầu.
Đau
thương, mất mát rồi cũng phải dần dần khắc phục, tương lai cũng lại bàn tới; Đó
là sửa chữa lại nhà mình, cũng phải sửa chữa lại cả nhà Chúa nữa… đây lại là một
thử thách và là gánh nặng mới Chúa trao thêm cho cộng đoàn dân Chúa, cho những
người có trách nhiệm của giáo xứ trong lúc đó.
Qua sự giúp đỡ, giới thiệu của Đức
Cha phụ tá Phanxico Xavie Trần Thanh Khâm, đại diện giáo xứ đến gặp Cha
Nicolais Huỳnh Văn Nghi, Chính xứ Tân Định (sau là Đức Cha) để người cho vay
140.000 đồng mua 3.000m2 đất ( toàn bộ khuôn viên nhà Thờ, nhà Xứ, trường học
hiện nay) Ngoài ra người còn bỏ tiền ra xây một dãy nhà tôn 9 căn làm lớp học
hướng nghiệp ( dãy B trường Lê Hữu Từ, cùng nằm trên diện tích đất này) và Người
giúp thêm 100 tấm tôn, cây để sửa chữa lại nhà Thờ. Sau ít tháng, nhà Thờ cũng
được sửa chữa xong, Cha Hoàng tiếp tục về dâng thánh lễ hàng ngày ( Cha Thông bận
không về nữa). Giáo họ lại trở về sinh hoạt bình thường
III.
THÀNH
LẬP GIÁO XỨ : ( 1969 – 1976)
Cuối năm 1968, tình hình xứ đạo đã tạm
ổn định, giáo dân đã phát triển đông hơn. Lúc này hơn lúc nào hết, An Nhơn vẫn
phải được thành lập một Giáo xứ và có một Linh Mục chủ chăn. Đại diện của giáo
dân lên trình bày cùng Đức Tổng Giám Mục, nhưng Đức Cha vẫn chưa thể bổ nhiệm
được Cha xứ thích hợp, Đại diện họ quay về gặp Cha Trần Ngọc Phan, hiện đang phụ
trách quản lý nhà hưu dưỡng Phát Diệm, đồng thời là bí thư Tòa Tổng Giám Mục
xin người tìm cách giúp. Qua sự trình bày của Cha Phan, ngày 07/01/1969 Đức Cha
Trần Thanh Khâm đã về tham quan thực tế họ đạo An Nhơn, qua lần thăm viếng này
Cha Phan giới thiệu và xin đích danh Cha Trần Phương Phy là anh ruột của Người
hiện đang ở Giáo xứ Phát Diệm, Phú Nhuận được về trông coi Giáo xứ và sau đó đã
được Tòa Tổng Giám Mục nhất trí.
Ngày 08/01/1969 họ đạo An Nhơn chính
thức được công nhận là một giáo xứ thuộc Hạt Xóm Mới, Giáo Phận Sài Gòn, đồng
thời cử Cha Grégorio Trần Phương Phy làm chính xứ đầu tiên.
Ngày 01/02/1969 Giáo dân An Nhơn đón
tiếp Cha Phy về nhận Giáo xứ, một Giáo xứ nhỏ bé, còn nhiều tệ nạn xã hội chung
quanh, chưa có nhà xứ vv … Tât cả gần như chưa có gì, chỉ vỏn vẹn với một nhà Nguyện
nhỏ bé vừa mới được sửa chữa lại.
Vì chưa có nhà xứ nên hàng ngày Cha vẫn
phải đi về nhà hưu Phát Diệm tạm trú và tới Giáo xứ dâng Thánh lễ và làm mục vụ.
Để thực hiện nhiều công việc cần làm
của Giáo xứ và giúp Cha xứ lo công việc chung, ngày 27/04/1969 Cha xứ đã cử ban
đại diện lâm thời do ông Đinh Văn lũy làm trưởng ban, tạm đảm trách điều hành
trong vòng một năm.
Cha xứ và những vị có trách nhiệm đã
trả được tiền mượn để mua đất cho Cha Nghi và còn mua lại được dãy nhà tôn 9
gian để chuẩn bị làm trường học. Nhờ uy tín của Cha ở Giáo xứ Phát Diệm cũ, nhiều
vị ân nhân đã nhiệt tình giúp Cha tiền mặt, sắt thép, xi măng, ván ép vv… để
chuẩn bị kế hoạch xây dựng các công trình cho Giáo xứ.
Ngày 01/08/1969 Cha xứ cho khởi công
xây dựng trước một dãy nhà lầu để làm trường Trung học gồm 8 lớp, đối diện với
dãy nhà tôn 9 gian.( nhà thờ được dời tạm về dãy nhà tôn).
Ba tháng sau, ngày 2/11/1969, tầng trệt
của ngôi trường đã tạm xong, Cha xứ đã về ở 1 phòng để điều hành công việc
không phải đi về nhà hưu nữa.
Tháng 4/1969 nhà trường được xây dựng
xong với tên gọi là : Trường Trung Tiểu Học Tư Thục Lê Hữu Từ ( tên Đức Cha
Phát Diệm). Trên lầu vẫn chưa ngăn thành từng lớp để tạm thời dùng làm nhà thờ.
Tầng trệt làm các lớp Trung học đã được khai giảng cho năm học 1969 – 1970.
Tháng 4/1970 đúng một năm công tác của
BCH Lâm thời, và để chuẩn bị cho kế hoạch trọng tâm là xây dựng Tân Thánh Đường
cũng như để cho Hội Đồng Giáo xứ hoạt động đúng qui chế, cha xứ đã cho bầu
BTV/HĐGX nhiệm kỳ I , cùng với việc quyết định là thành lập và phân chia giáo xứ
với 4 khu họ để dễ sinh hoạt và và điều hành gồm:
1/ Khu Trị Sở : Bổn mạng Thánh Giuse
cầu bầu : 19/3
2/ Khu Vô Nhiễm : Bổn mạng Đức Mẹ Vô
nhiễm : 8/12
3/ Khu Tử Đạo : Bổn mạng Thánh Phêrô
: 29/6
4/ Khu Giuse Thợ : Bổn mạng Thánh
Giuse Thợ : 1/5
Trường học đã xây xong, kế đến Cha xứ
và BTV/HĐGX nhiệm kỳ I đã soạn thảo một kế hoạch xây dựng nhà thờ mới có tầm cỡ
có quy mô lớn, nhiều mẫu nhà thờ trong Giáo phận đã được đến tham quan, lấy mẫu
vẽ, rút kinh nghiệm, nhiều nhà thầu được tham khảo, lập kế hoạch tổ chức quyên
góp trong và ngoài giáo xứ. Công việc chuẩn bị được dự kiến trong vòng 7 tháng.
Ngày 21/11/1970 Ngày lễ “Đức Mẹ Dâng
Mình” được Cha xứ và HĐGX quyết định khởi công đào móng. Theo dự toán chi phí
cho công việc xây nhà thờ tốn khoảng 15.000.000đ và cho nhà xứ 5.000.000đ.
Nhưng số tiền thực tế có được cho đến bấy giờ mới được 1/5 dự toán ( hơn 4 triệu
). Với lòng tin tưởng và quyết tâm của Cha xứ, mọi công việc Cha vẫn cho tiến
hành dù Cha đã phải đi vay mượn nhiều nơi … nhưng rồi ( theo lời Cha
kể) lại có những vị ân nhân ủng hộ tiếp ( đa số ở nơi khác) để trả nợ. Tuy vậy Cha
vẫn trông cậy vào ơn trên nhiều hơn.
Ngày 31/01/1971 một Hồng ân đặc biệt
dành cho giáo xứ An Nhơn là “ Đức Mẹ Fatima Thánh Du” còn gọi là tượng “Đức Mẹ
khóc” do Đạo Binh Xanh Quốc tế tổ chức rước Mẹ đi thăm nhiều nước trên thế giới
trong đó có Việt Nam mà An Nhơn và Hạt Xóm Mới là một trong rất ít nơi đã được
chọn để Mẹ ghé thăm ủi an. An Nhơn là cửa ngõ vào Xóm Mới được phân công dựng một
khán đài tiếp đón Mẹ ngay tại vườn hoa ( trước cây xăng Đức Hiệp). Một đoàn xe
rước Mẹ của An Nhơn và Xóm Mới lên đón tại nhà thờ Tân Sa Châu, một cuộc Cung
nghinh Mẹ chưa từng có. Trên đường từ nhà thờ Tân Sa Châu về An nhơn và từ An
Nhơn về Xóm Mới các giáo dân ở các xứ đạo từ Phú Nhuận, Phát Diệm và nhiều nơi
khác đổ về chật hai bên đường để chào đón, vì quá đông nên đoàn xe đã phải di
chuyển về chậm mất 2 giờ theo chương trình dự kiến.
Đúng 17 giờ ngày 31/01/1971. Sau 3 giờ
giáo dân chờ đón sẵn trước 2 hai bên đường và nơi khán đài. Tượng Đức Mẹ được
rước lên khan đài để Mẹ ngự ở đây khoảng 15 phút để con cái An Nhơn chiêm ngưỡng,
tâm tình,cầu nguyện, và ca hát tung hô … Ngay sau đó Tượng Đức Mẹ lại được rước
lên xe hoa về thăm Giáo Hạt Xóm Mới.
Với biến cố Mẹ viếng thăm trọng đại
này, và thể theo lời nguyện cầu của Cha xứ cũng như cộng đoàn dân Chúa An
Nhơn.Mẹ đã nhủ lòng thương nên công việc tiến hành xây dựng Thánh đường vẫn tiến
triển tốt đẹp. Với một xứ đạo nghèo, ít giáo dân, vừa trải qua một biến cố chiến
tranh trực tiếp trên xứ đạo…Không mong gì xây được một nhà thờ với mức khiêm tốn,
nhưng ơn Chúa và Mẹ đã ban cho Cha xứ sức khỏe, sự khôn ngoan, tài trí nên
Thánh đường An Nhơn đã hình thành theo đúng dự trù, đúng kế hoạch, đúng thời
gian và có thể nói là to đẹp nhất và kiểu mới trong Hạt Xóm Mới bấy giờ.
Ngày 21/11/1971 đúng một năm sau, nhà
thờ nhà xứ cơ bản đã hoàn thành, toàn Giáo xứ đã rước kiệu “ Mình Thánh Chúa” từ
nhà thờ tạm về nhà thờ mới. Đánh dấu ngày dâng Thánh lễ đầu tiên tại ngôi Thánh
đường mới, với một tâm tình kính yêu Mẹ và đặc biệt cảm tạ Mẹ trong lần Mẹ ghé
thăm đã ban nhiều hồng ân, Cha Chính xứ quyết định chọn tước hiệu “ Mẹ Maria Vô
Nhiễm” làm bổn mạng của Giáo xứ. Hàng năm được tổ chức mừng kính trọng thể vào
ngày lễ này.
Ngày 11/12/1971 Cha xứ và cộng đoàn
dân Chúa An nhơn đã long trọng tổ chức và vui mừng đón Đức Tổng Giám Mục Phao
lô Nguyễn Văn Bình về làm phép khánh thành Tân Thánh Đường. Đức Cha Phụ tá,
đông đảo Quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ, Quý khách, Quý ân nhân, đại diện xứ đạo,
giáo dân trong địa phận cũng như ở xa cùng về dự lễ, chung vui … Đặc biệt trong
thánh lễ, đến tham dự còn có nhiều đoàn của các tôn giáo bạn, gồm nhiều Hòa Thượng,
Đại Đức Tăng ni, Phật tử cùng hoan hỷ đến chúc mừng trên tinh thần đoàn kết
lương giáo.
Tiếp tục chương trình phát triển giáo
xứ, Cha xứ cùng HĐGX còn giải quyết xây dựng nhiều công trình cụ thể khác như:
- Hoàn
tất khu nhà xứ với 6 phòng : dưới nhà 4 phòng, trên lầu 2 phòng.
- Mua
đất thêm ở phí sau nhà thờ để xây cư xá bán lại cho giáo dân ở nơi khác để thu hút về nhập xứ.
- Cùng
với một chương trình mua đất để thành lập một cư xá lấy tên là cư xá An Bình ( ở
khu vực gần chợ An Nhơn) để tăng thêm giáo dân.
Sau
khi thánh đường, nhà xứ các công trình khác đã được thực hiện xong, thì ngay từ
năm 1971 Cha xứ cùng Thày Phanxico Savie Phan Thiện Hảo đã quan tâm đặc biệt đến
vấn đề giáo dục. Cụ thể là :củng cố trường Trung Tiểu Học Tư Thục Lê Hữu Từ
thành một trường Công giáo trọng điểm trong vùng, vừa giải quyết kinh tế cho
nhà Thờ, nhà xứ mà còn mục đích lớn hơn là giáo dục những con em đang sống
trong môi trường chung quanh không được tốt lành lắm, có ảnh hưởng đến đạo đức
con em của nhiều gia đình giáo dân.
Sau
ngày 30/04/1975 giáo dân An Nhơn cũng có nhiều biến chuyển, nhiều gia đình chuyển
đi nơi khác, có gia đình dọn về quê sinh sống sau khi hòa bình lập lại, một số
lớn hưởng ứng chính sách đi vùng kinh tế mới của Chính quyền địa phương, nên
giáo dân trong xứ giảm sút đáng kể, khu họ Tử Đạo phải sáp nhập vào khu họ Vô
Nhiễm.
- Năm
1975 : có 245 hộ với 1650 giáo dân
- Đầu
năm 1976 : còn 92 hộ với 699 giáo dân
Tổng số giảm : 153 hộ với 951 giáo dân.
Tình hình sút giảm trên, ảnh hưởng trầm
trọng đến mọi sinh hoạt của giáo xứ, Hội đồng Giáo xứ ngưng hoạt động, mọi trọng
tâm hoạt động đều tập trung vào thời gian có thánh lễ sáng hoặc chiều.
Tháng 1/1976 Cha Chính xứ Trần Phương
Phy phải vắng mặt tại Giáo xứ, chưa biết ngày trở lại Giáo xứ. Từ đây An Nhơn lại
trở vào tình hình thời năm 1965 không có chủ chăn, mỗi ngày chỉ có một Thánh lễ ban chiều do các Cha ở nhà hưu dưỡng thay
nhau xuống giúp dâng thánh lễ.
IV.
THỜI
GIAN CHUYỂN TIẾP (1976 – 1983)
Thời gian này tạm gọi là thời gian
chuyển tiếp, thời gian vắng Linh mục chính xứ, các Cha nơi khác đến dâng lễ còn
bị hạn chế, tình hình kinh tế giáo dân khó khăn, nhà xứ cũng không còn nguồn
kinh tế ( trước đây nhờ vào trường học, nay đã hiến cho nhà nước).
Cha Trần Cao Đàm chỉ ở lại giáo xứ được
một thời gian, rồi tuổi cao sức yếu Người cũng phải về nhà hưu Phát Diệm, Giáo
xứ giao lại cho Thầy Phan Thiện Hảo trông nom về tinh thần lẫn vật chất ( nhà
thờ, nhà xứ). Thầy đã phải liên hệ với Cha quản lý nhà hưu để xin giúp đỡ, cử
Cha về dâng Thánh lễ ban chiều mỗi ngày.
Cha Đinh Long Diện đã già, đôi lúc đã
lẫn vẫn sốt sắng xuống giúp, hằng ngày mỗi chiều phải đi bộ từ nhà hưu xuống
dâng Thánh lễ rồi lại đi bộ về, gặp xe nào Người cũng vẫy gọi cho đi nhờ vv… thế
mà Người cũng giúp được một thời gian dài, đến năm 1982 Người đã quá yếu, cũng
không còn ở nhà Hưu nữa và Người về dưới Cái Sắn (Cà Mau) ở với Linh mục dưỡng
tử là Cha Sửu, và Người đã qua đời tại đây năm 1986.
Trong thời gian Cha Diện còn đang
dâng lễ được thì Thầy Hảo và quí vị đại diện Giáo xứ nhiều lần lên gặp Đức Tổng
Giám Mục để xin một Cha về ở luôn với giáo xứ, nhưng không có Cha nào Tòa Tổng
Giám Mục thu xếp về được.
Mãi tới ngày 19/12/1980 Cha Vũ Thái
Hòa đang hưu ở xứ Bình Hưng quận 8 được phép Tòa Tổng Giám Mục về nhận Chánh xứ
An Nhơn nhưng vì thủ tục đối với chính quyền không xong nên Người cũng không thể
về được.
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình vẫn
có ưu ái đặc biệt với giáo xứ An Nhơn nên năm 1981 Người đã cử Cha Trần Ngọc
Thuyết đang là chính xứ Bắc Dũng ( Hạt Xóm Mới) kiêm nhiệm giáo xứ An Nhơn. Vì
tạm kiêm nhiệm nên Cha chỉ về dâng hai thánh lễ mỗi ngày sáng và chiều đồng thời
giải quyết một số công việc chung của giáo xứ, Cha cũng lo cho các em Xưng tội
Rước lễ lần đầu, chịu phép Thêm sức, học giáo lý vv… Đây cũng là nguồn an ủi
khi chưa có vị chủ chăn chính thức.
Năm 1982 BTV/HĐGX nhiệm kỳ II không
còn ai nên Cha đã cho tổ chức bầu BTV/HĐGX nhiệm kỳ III do Ông Nguyễn Văn Tự
làm Chủ tịch và giữ nề nếp sinh hoạt BCH 03 khu họ như cũ.
Cha và BTV/HĐGX nhiệm kỳ III cũng đã
lo tu sửa Thánh đường : sơn lại toàn bộ các khung cửa nhà thờ để chống rỉ sét.
Năm 1983 Cha xứ Tử Đình mất, Giáo xứ
Tử Đình cũng không xin được Cha xứ mới nên Cha Trần Ngọc Thuyết lại được cử
kiêm nhiệm thêm giáo xứ Tử Đình nữa nên công việc của Cha quá nặng, nhưng rồi
Cha vẫn tiếp tục nhiệm vụ của Cha cho đến ngày giáo xứ An Nhơn có chính xứ mới.
Đó là vào tháng 7/1983.
V.
VỮNG
TIN VÀ ĐI LÊN ( 1983 – 1996) :
Sau
ngày 30/04/1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, lịch sử Việt Nam đã đi vào một trang
sử mới, người Công giáo Việt nam nói chung, giáo dân An Nhơn nói riêng vui mừng
khi được hòa bình, nhưng không khỏi băng khoăn lo ngại trong việc sống đạo, vì
trong thời điểm đang còn nhiều giao động mà Cha xứ là người lãnh đạo tinh thần
cần thiết lại vắng tại giáo xứ chưa biết ngày Ngài được trở lại.
Từ
năm 1975 đến năm 1980 nhiều hoạt động trong xứ đạo trước đây gần như ngừng lại,
BTV/HĐGX, Ban chấp hành các khu, người
thì đi xa, người thì qua đời … giáo dân thì giảm sút trầm trọng. Thời gian này
cũng như thời gian mới thành lập Giáo họ (1965 – 1969) Tức là An Nhơn muốn có
thánh lễ thì chỉ mời được những Cha già đang ở nhà Hưu dưỡng Phát Diệm xuống
vào mổi buổi chiều .. mọi sinh hoạt trong nhà thờ nhà xứ đều giao cho thầy Hảo
trông nom lo liệu … kể cả mời Cha đi kẻ liệt, lễ an tang vv…
Năm
1980 sau khi có thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt nam là : “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh
phúc của đồng bào” con đường sống đạo của người Công giáo Việt nam đã được
lãnh đạo Giáo hội vạch rõ. Chính vì vậy mà thời gian này hơn lúc nào hết An
Nhơn cần thiết phải có một vị Chủ chăn. Họ đã lên gặp Đức Tổng Giám Mục nhiều lần
xin Đức Cha thu xếp ban cho, nhưng đều không đạt kết quả. Rồi có người mách bảo,
họ lên Tu viện Đaminh Gò Vấp trình bày cùng Cha Bề trên xin Người giúp giới thiệu
cho một Cha thuộc Dòng về trông coi giáo xứ qua sự bổ nhiệm của Đức Tổng.
Tháng
6/1983 Cha Giuse Đinh Châu Trân chính thức được bổ nhiệm về làm chính xứ An
Nhơn trong lúc Cha còn đang là Bề trên Tu viện Đaminh Gò Vấp. Sự kiện Cha Trân
về giáo xứ cũng là hồng ân đặc biệt Chúa ban cho An Nhơn qua bàn tay xếp đặt của
Người. Trong Tu viện còn nhiều Cha ít phần trách nhiệm hơn nhưng Đức Cha không
bổ nhiệm lại chọn Cha trong lúc Cha đang còn là Bề trên của Tu viện. Đối với Đức
Cha đây là lý do riêng của Người nhưng đứng về phía giáo dân An Nhơn sự bổ nhiệm
Cha Trân về làm chính xứ là một vui mừng lớn, thể hiện đường hướng tương lai của
giáo xứ qua vị lãnh đạo tài, đức.:
-
Là một Linh mục Dòng, có học vị cao ( Tiến sĩ
Toán học) đã có nhiều năm du học tại ngoại quốc, từng là Hiệu Trưởng Trường
Trung Học Công Giáo lớn nhất quận, trường Chân Phước Liêm, ( sau giải phóng đã hiến
cho nhà nước)
-
Đối với chính quyền, Người đang tham
gia hoạt động ngoài xã hội; Hội Đồng Nhân dân Quận, thành viên MTTQ/quận, phường
và Tổ Trưởng tổ Đoàn kết Công Giáo quận.
Như
vậy sự hoạt động của Cha Chính xứ sẽ phù hợp cả về phương diện tinh thần lẫn hoạt
động ngoài xã hội ( chính quyền) nhất định sẽ thuận lợi cho chiều hướng sống đạo
theo thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mà An Nhơn là nơi sẽ được Cha đem
ra áp dụng và thực thi.
Cha
Trân về nhận giáo xứ, về mặt vật chất thì đã có sẵn đầy đủ: nhà thờ khang
trang, nhà xứ rộng rãi .. nhưng về tài chính thì cũng như hồi Cha Phy mới về
giáo xứ không có bếp riêng để lo cho Cha và các Thầy. Cha vẫn phải đi về Tu viện
để ăn nghỉ. Thời gian đầu Cha chỉ xuống dâng Thánh lễ sáng và chiều còn ban
ngày vẫn về để sinh hoạt với Tu viện ( Cha vẫn còn làm Bề Trên).
Ngay từ những ngày đầu về nhận xứ, Người vẫn tôn
trọng, giữ những lễ nghi, những tập tục đã có sẵn mà các vị tiền nhiệm của Người
để lại. Cha đưa những nét mới vào sinh hoạt trong giáo xứ, củng cố lại các đoàn
thể, cử các Thầy của Tu viện về giúp trong Thánh lễ của Thiếu nhi, dạy giáo lý,
dạy hát, sinh hoạt cộng đồng … phân các giờ lễ riêng cho từng đối tượng tham dự.
Ngay từ năm 1984 Người thành lập được Dòng Ba
Đaminh đầu tiên tại giáo xứ.
Năm
1985 Cha xứ đã cho tổ chức bầu lại BCH 03 khu họ và bầu BTV/ HĐGX nhiệm kỳ IV
do ông Chu Văn Tập làm Chủ tịch. Từ HĐGX nhiệm kỳ này Cha luôn nhắc nhở, tạo điều
kiện để giúp họ hun đúc tinh thần đoàn kết trong Giáo xứ. Cha cho đây là nhiệm
vụ trọng tâm của Cha và hứa luôn tạo cho giáo xứ tinh thần đoàn kết, yêu
thương, Người luôn nhắc nhở đến khi có dịp trong các buổi hội họp sinh hoạt cộng
đồng, liên hoan.
Những
năm tiếp theo HĐGX và Cha đã thực hiện một số công trình tu bổ thánh đường, lập
đài Đức Mẹ v.v… và có nhiều chương trình đổi mới hoạt động giáo xứ để phục vụ
giáo thiết thực, tạo niềm tin tưởng ngay giai đoạn đầu và không ngừng phát triển
về mọi mặt giúp Giáo xứ ổn định và đi lên.
Cuối
năm 1989 sau khi Cha đi công tác cho Tỉnh Dòng tại ngoại quốc về thì năm sau
1990 Cha lại được bầu làm Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Đa Minh Việt nam, một chức vụ
nặng nề hơn chức Bề Trên Tu viện lại đè nặng trên đôi vai Cha, nhưng không vì
thế mà Cha đành rời bỏ giáo xứ, Người vẫn quan tâm lo lắng mọi công việc khi cần
thiết, tuy Người ít về giáo xứ hơn, Người thường cử các Cha ở nhà Dòng về dâng
thánh lễ thay cho Cha, và luôn có các Thầy về giúp, sinh hoạt cho các em thiếu
nhi … thật ra đây là dịp để Cha có cơ hội
giúp được nhiều hơn cho giáo xứ qua chức vụ Bề Trên Giám Tỉnh do Cha đảm trách.
Thời gian này, đối với Tu viện Đa Minh Gò Vấp, An Nhơn như là một xứ thuộc nhà
Dòng, hầu hết các Cha có ở nhà Dòng từ Cha Phó Bề Trên như : Cha Hạnh, Cha Mẫn,
Cha Cung, Cha Trực, Cha Chữ, Cha Liêm vv … đều thay nhau về giúp giáo xứ từ
dâng Thánh lễ đồng tế, Thánh lễ mỗi ngày
khi vắng Cha xứ, giải tội, giảng phòng v.v…
Năm
1990 với công việc của một Giám Tỉnh Cha thường phải đi thăm và làm việc với
các Tu viện của Tỉnh Dòng trên toàn quốc nên Cha xứ đã xin Cha Giuse Đỗ Ngọc Bảo
về phụ tá cho Cha và sau này là Cha Phó toàn quyền trông coi giáo xứ để Cha có
thời gian lo cho Tỉnh Dòng được nhiều hơn với chức vụ của Người.
Cũng
trong năm 1991 Cha đã cho bầu lại BTV/HĐGX nhiệm kỳ V, do ông Nguyễn
Văn Đính làm Chủ tịch. Cũng như các Ban Thường vụ tiền nhiệm. BTV nhiệm kỳ V cũng đã có nhiều công sức cùng
với Cha xứ lo tu sửa Thánh
đường, nhất là công trình làm mới nhiều phòng ốc khu sân thượng của nhà xứ, nới
rộng phòng truyền thống, hệ thống quạt trong nhà thờ.v.v…
Năm
1993 HĐGX nhiệm kỳ VI đã được bầu do ông Nguyễn
Tiến Hậu làm Chủ tịch. BTV và Ban Chấp hành 3 khu đã cùng với Cha Phó điều hành
mọi công việc trong Giáo
xứ. Khi cần thiết Cha xứ vẫn chỉ đạo điều hành qua BTV/HĐGX còn Cha ít về Giáo xứ vì
công việc quá bận rộn của Tỉnh Dòng. Ngoài ra Cha xứ cũng giao toàn quyền giải
quyết cho Cha Phó nên công việc Giáo xứ vẫn tiến triển đều cả về tinh thần lẫn
xã hội, nơi chính quyền v.v…
Trong
nhiệm kỳ HĐGX khóa VI này cũng đã cộng tác tích cực với hai Cha để thực hiện
nhiều công trình có ý nghĩa cho Giáo xứ, cụ thể :
-
Lợp thêm một mái bằng tôn để chống thấm
nhà thờ mà trước đây đã nhiều năm sửa mà không hết. Sau đó lại sơn, quét vôi lại
toàn bộ nhà thờ, nhà xứ, đây là một công trình sửa chữa lớn thật có ý nghĩa, đạt
hiệu quả cao.
-
Lập công trình tượng đài Thánh Martin
và Thánh Phaolô Lê Văn lộc ngay trên vườn hoa cạnh nhà thờ, tiện để giáo dân cầu nguyện các
Thánh và làm tôn nghiêm cảnh quan nhà thờ....
Tháng 7/1994 Cha xứ tái đắc cử Bề trên Giám Tỉnh nhiệm kỳ II, như vậy với chức vụ Người lại được trao, chắc
chắn Cha sẽ chưa thể về ở hẳn với Giáo xứ được, nhưng giáo dân An Nhơn vẫn tin tưởng
Cha xứ vẫn dẫn dắt Giáo
xứ theo con đường của Cha, mà lúc này đã có Cha Phó là người được Cha xứ giao,
sẽ ngày một tiến xa và nhanh hơn.
Tháng 12/1995 Cha xứ lại lên đường đi dự Tổng Hội Dòng tại Hoa Kỳ với thời
gian khá dài (12/1995 – 2/1996) Cha vừa
dự Tổng Hội Dòng vừa phối hợp thăm các Tu viện của Tỉnh Dòng Việt Nam tại các nước,
đồng thời Cha cũng cần kiểm tra lại sức khỏe của Người khi có dịp.
Tháng 8/1996 Hội Đồng Giáo xứ nhiệm kỳ VII, do ông Trần Văn Cảnh làm Chủ Tịch đã
được bầu và tuyên thệ nhậm chức để nhận trách nhiệm phục vụ Giáo xứ.
KẾT LUẬN:
Với quãng thời gian 49 năm lịch sử hình thành, giáo xứ An Nhơn được tạm
chia ra thành 4 quãng thời gian sau:
-
Giai đoạn I (1965 – 1969) : Là thời
gian bắt đầu thành lập Giáo
họ, thời kỳ khó khăn
ban đầu, mới xây dựng được một nhà Nguyện nhỏ, chưa thành xứ chưa có Linh mục, các
Cha chỉ về giúp dâng Thánh
lễ theo từng giai đoạn và mọi sinh hoạt trong giáo họ đều ở mức độ hạn chế.
-
Giai đoạn II (1969 – 1976) : Thời
gian bắt đầu thành lập Giáo
xứ, có Cha Chính xứ, mọi xây dựng cơ bản (nhà thờ, nhà xứ, trường học) được xây
dựng hoàn chỉnh với qui mô lớn. Mọi hoạt động trong Giáo xứ đã đi
vào nề nếp và hình thành các tổ chức như: BTV/HĐGX nhiệm kỳ I. Ban Chấp
hành các khu họ, các đoàn thể, ngoài ra
về mặt xã hội đã có trường Trung Học Tư Thục lớn nhất vùng. Mọi hoạt động đều
đang được tiến triển từng bước rất tốt đẹp.
-
Giai đoạn III (1976 – 1983) : Thời
gian này coi như thời gian I, vắng Linh mục chủ chăn, giáo dân biến động lớn,
các Linh mục xin từ nơi khác tới cũng chỉ dâng lễ được cho mỗi buổi chiều, mọi
sinh hoạt của giáo xứ và việc sống đạo không còn như trước. Có khá hơn đôi chút
là thời kỳ Cha Thuyết (1981 – 1982) về kiêm nhiệm giáo xứ.
-
Giai đoạn IV (1983 – 1996) : Giai đoạn này đã
có Linh mục Chánh xứ mới, đã có đường hướng mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam để tin tưởng và vững bước đi lên. Trong suốt 13 năm dẫn dắt của Linh mục
Chánh xứ và 6 năm với Cha Phó, giáo xứ An Nhơn đã trưởng thành về nhiều mặt, đã
tu sửa và lập mới nhiều công trình cho nhà Thờ, nhà xứ và tiến hành một bước
khá dài trên bước đường sống đạo và sống phúc âm giữa lòng dân tộc.
-
Đó là tóm tắt những chặng đường suốt 49
năm giáo dân An Nhơn đã trải
qua và hiện nay đang rất tin tưởng và vũng tin tiến bước để xây dựng Giáo hội
nơi trần thế mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Xứng đáng và tự hào với những thành quả
của những vị chủ chăn đã góp công xây dựng, bồi đắp từ lúc mới hình thành cho đến
ngày hôm nay.
GIÁO XỨ AN
NHƠN NGÀY NAY
A. ĐỊA GIỚI :
Giáo xứ An Nhơn nằm về phía Tây Bắc phường 17 quận Gò Vấp, gần ngã ba Lê
Hoàng Phái và đường Lê Đức Thọ ( trước là đường 26/3) trên hướng đi Xóm Mới, giáp với giáo xứ Hoàng Mai ( phường
15 ) và bên này đường thuộc phường 16.
Từ thời Cha Trần Phương Phy, giáo xứ đã được chia ra thành bốn khu họ, tới
năm 1975 do số giáo dân biến động nhiều nên họ Tử Đạo sáp nhập vào họ Vô Nhiễm,
còn 03
khu họ như sau:
- Khu
họ Trị Sở: Gồm những gia đình cư ngụ chung quanh nhà thờ và dọc theo hai bên đường
Lê Đức Thọ về hướng Xóm Mới tới địa giới của giáo xứ Hoàng Mai.
- Khu
họ Vô Nhiễm : Từ đường vào Chùa Kỳ Quang ( trên đường Lê Hoàng Phái) ra đường
Nguyễn Oanh về hướng Gò Vấp, quanh khu vực cư xá Mai Thành, cư xá Lam Sơn.
- Khu
họ Giuse Thợ : Chạy dọc đường Nguyễn Oanh từ đường Nguyễn Văn Lượng đến cầu An
Lộc đổ về phía chợ An Nhơn, đến giáp ranh với giáo xứ Bến Cát (P. 5)
Đến năm 2013, An
Nhơn được Cha Chánh xứ Phao Lô Nguyễn Quốc Hưng, Ngài đã phân chia lại
03 khu họ thành 09 khu từ:
*
Giáo khu Trị Sở tách thêm thành 03 khu gồm :
2.
Khu Trị Sở
3.
Khu Phêrô
4.
Khu Phaolô
*
Giáo khu Mân Côi tách thêm thành 03
khu gồm :
1.
Khu Đức Mẹ Mân Côi
2.
Khu Đức Mẹ Lên Trời.
3.
Khu
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
* Giáo khu Thánh Giuse Thợ tách thêm
thành 03 khu gồm :
1.
Khu Thánh Giuse Thợ
2.
Khu Các Thánh Tử Đạo.
3.
Khu Kitô Vua
TIỂU
SỬ CÁC CHA CHÁNH, PHÓ XỨ
1) Tiểu sử: Cha PHÊRÔ TRẦN VĂN THÔNG ( 1965 – 1969 )
-Linh
mục : Phê rô Trần Văn Thông
-Sinh
năm : 1927, tại Tân Quy, Hóc Môn.
-Thụ
phong Linh mục năm 1950 tại Sài Gòn.
-Từ
trần ngày 10/7/1991 tại Tân Định.
·
Những công ơn đầu tiên tốt đẹp của Cố
Linh mục Phê rô Trần Văn Thông
·
Công lao to lớn của các bậc cao niên
đã công phu thực hiện.
·
Từ không đến có.
·
Từ 15 gia đình đến 692 gia đình.
·
Từ một nhà Nguyện bé nhỏ đến giáo xứ
đông đúc.
Những
thành quả tốt đẹp đó là hồng ân Chúa đã ban cho xứ đạo An Nhơn, hôm nay và mãi
mãi về sau
2) Tiểu sử: Cha GHÊGÔRIÔ TRẦN PHƯƠNG PHY ( Nguyên
Chánh xứ )
(
1968 – 1976)
·
Linh mục Ghê gô ri ô Trần Phương Phy
·
Sinh ngày 23/6/1921 tại làng Ứng Luật, Huyện
Kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình,
·
Vào trường thử 2 năm tại Ba Làng, từ
3/8/1933
·
Đến 1935. Về học tại Chủng viện Phúc
Nhạc 7 năm (1935 – 1942).
·
Học Đại Chủng Viện Thượng Kiệm (Phát
Diệm) 6 năm và đi thử (1942 -1949).
· Thụ phong Linh mục ngày 2/4/1949 tại
nhà thờ Chánh tòa Phát Diệm.
· Từ trần ngày 28 tháng 03 năm 2014 và đã được an táng tại nghĩa trang An Dưỡng Viện Phát Diệm Gò Vấp.
Sau đây là các nhiệm sở đã được trao phó:
-1949 – 1950
: Phó xứ Dưỡng Điềm
-1951 :
Bổ sung vào Ban TRuyền giáo Địa Phận
-1952 :
Trưởng ban Truyền giáo kiêm ban từ thiện xã hội
-1953 : Kiến
thiết 80 căn nhà cho đồng bào bị tai nạn chiến tranh ở Tam Châu trên đất
Tòa Giám Mục tại Thượng Kiệm. Đồng thời làm phụ tá cho Cha Bùi Chu Tạo ( sau là
Đức Cha Tạo), Tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thượng Kiệm.
- 1954 : Di cư
vào Nam, được cử làm phó đại diện giúp đồng bào gốc Phát Diệm định cư tại Biên
Hòa, Hố Nai, Gia Kiệm,Bảo Lộc.
Thành
lập các xứ vùng Gia Kiệm : Phát Hải, Kim Thượng, Phúc Nhạc, Gia Yên, Bạch Lâm.
Thành
lập xứ Xóm Thuốc.
Kiến
thiết nhà nghỉ mát cho Đức Cha Lê Hữu Từ vàTu viện Mến thánh Giá tại Phước Tĩnh
-1956 : Phó xứ Phát Diệm tại Phú Nhuận.
-1968 : Chánh xứ An Nhơn
do
Đức Tổng Giám Mục Phao Lô Nguyễn Văn
Bình bổ nhiệm.
3)
Tiểu
sử: CHA GIUSE ĐINH CHÂU TRÂN ( Nguyên
Chánh xứ)
( 1983
– 1996 )
o Cha
Giuse Đinh Châu Trân. OP
o Sinh
năm : 1932
o Tại
: Làng Thực Hóa – Huyện Xuân Thủy, Tỉnh Nam Hà.
*
Năm 10 tuổi (1942) Cậu Giuse được Cha
chính Bartolomêo Nguyễn Quang Ân nhận vào nhà Chúa.
*
Năm 12 tuổi (1944) Cậu nhập Tiểu Chủng
Viện Mỹ Đức, Thái Bình và học ở đó bảy năm.
*
Từ năm 1951 – 1954 Thầy Giuse Trân
theo học Triết lý tại Giáo Hoàng Chủng Viện Anbêto Nam Định. Hết 3 năm Triết,
Thầy sang Hồng Kông học tại Học Viện Rosary Hill.
*
Mãn 4 năm Thần học, thầy Giuse hồi
hương xin vào Dòng Đa Minh, qua năm tập viện Đức Mẹ Mân Côi, Gò Vấp, Thầy khấn
Dòng ngày 6/10/1959.
*
Năm 1960 thầy sang Philipppin, theo học
tại trường Đại Học Santo Tomas, Manila.
*
Ngày 21 tháng 4 năm 1963 Thầy Giuse
lãnh tác vụ Linh Mục. Cha Giuse tiếp tục học Đại học, đồng thời dạy học và giữ
chức vụ phụ tá tổng quản ở Manila một thời gian rồi sang Hoa Kỳ, học tại Đại học llinois đến cuối năm 1969 thì hồi hương.
*
Sau khi trở về Việt nam Cha làm Giám
học, rồi Hiệu Trưởng Trường Trung Tiểu Học Chân Phước Liêm Gò Vấp, đến tháng 4
năm 1975.
*
Từ năm 1977 Cha phục vụ Tu Viện và
Giáo xứ Mân Côi trong chức vụ Tu Viện Trưởng và Chánh xứ.
Ngày 12/6/1983, được bổ nhiệm về phụ trách Giáo xứ
An Nhơn. Khi về Cha nhận thấy Giáo dân rất đông, cơ sở sinh hoạt còn chật hẹp,
Cha đã nâng cấp 4 căn nhà của lầu 1 để dung cho các lớp giáo lý – xây thêm 1 hội
trường dùng làm nơi sinh hoạt cho cả xứ - thiết lập công viên tượng đài Thánh
Martin và Thánh Tử Đạo Việt nam – Phaolô Lê Văn Lộc. Lợp lại toàn bộ mái nhà thờ
để chống dột.
Tháng 2 năm 1990 Cha lãnh nhận trọng trách Bề
Trên Giám Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam, hiện thời Cha còn kiêm chức Chủ tịch Ban
điều hành Liên Tu Sĩ Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy bận rất nhiều việc trên Tỉnh Dòng, nhưng lúc nào Cha cũng quan
tâm về Giáo xứ An Nhơn, nên đã bổ nhiệm Linh mục Giuse Đỗ Ngọc Bảo về làm Phụ
tá thường trực giúp xứ.
4)
Tiểu
sử: Cha Cố GIUSE ĐỖ NGỌC BẢO . OP. (
Nguyên Phó xứ)
(
1990 – 1996 )
·
Linh mục Giuse Đỗ Ngọc Bảo
·
Sinh ngày 13/4/1950 tại Hà Nội.
·
Ngày 15/8/1969 : Khấn Dòng Đa Minh tại
Tu Viện Thánh Tôma Vũng Tàu.
· Ngày 14/5/1975 Thụ phong Linh Mục tại
Sài Gòn do Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình
·
Từ năm 1975 - 1987 : Ở Tu viện Đa
Minh Gò Vấp
·
Từ năm 1987 – 1990 : Phụ tá Giáo xứ
Xóm Thuốc.
·
Từ năm 1990 – 1996 Phụ tá Giáo xứ An
Nhơn
·
Từ ngày 15/11/1996 : Nhận chức Bề
trên Tu Viện Đa Minh Gò Vấp và Chánh xứ Giáo xứ Mân Côi.
·
Từ trần ngày 26 tháng 01 năm 2011
5)
Tiểu
sử: Thầy PHANXICO XAVIE PHAN THIỆN HẢO
(
1969 – 2014 )
·
Thầy Phan Thiện Hảo
·
Sinh năm 1916, tại Trung Đồng, Tỉnh Ninh Bình
·
Tu sĩ Giáo phận Phát Diệm từ năm 1926
·
Từ năm 1938 – 1954 đã đi giúp tất cả 14 Giáo xứ tại 3
Địa Phận Phát Diệm, Hà Nội, Bùi Chu.
·
Từ năm 1954 – 1969 Giúp giáo xứ Phát Diệm, Phú Nhuận.
·
Từ năm 1969 – 1996 : Bài sai giúp Giáo xứ An Nhơn Gò Vấp.
Công
tác :
-
Hiệu Trưởng trường Trung Tiểu Học Lê
Hữu Từ.
-
Sáng lập Thiếu Nhi Thánh Thể An Nhơn.
-
Đoàn Hướng Đạo Bắc Ninh + Hải Vân.
-
Sáng lập Ban Giáo Lý Viên Giáo xứ An
Nhơn (1976)
- Phụ
trách Giáo lý Tân Tòng.
6). Tiểu sử Cha CỐ GIUSE MAI VĂN RỰ ( 2000 -
2009)
Cha cố Giuse Mai Văn Rự
là giáo dân Giáo họ Thánh Đa minh Giáo xứ Lộc Hưng. Ngài sinh ngày 12 – 02 –
1951 tại Thái Bình. Trong gia đình lao động và đạo đức. Con ông bà cố Giuse Mai
Văn Tư và Maria Chu Thị Phấn. Gia đình có 2 anh em, 1 nam và 1 nữ. năm 1956 học
trường tiểu học Nghĩa Hòa, nay là trường tiểu học Chi Lăng, P.6, Q.Tân Bình(
HCM). Năm 1961 học trung học Nguyễn Bá Tòng nay là trung học Bùi Thị Xuân (Q.3
TP/HCM). Năm 1969 đậu Tú tài II. Học Đại học Văn Khoa Sài gòn. Vừa đi bỏ báo
SaìGòn Post. Năm 1971 Ngài nhập Tu hội Lâm Bích
Nha Trang. Năm 1974 Ngài nhập Đại Chủng Viện Thánh Giuse .
Trong thời điểm khó khăn
chung của Giáo hội Việt nam. Ngài gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, nhưng vẫn
kiên trì bậc tu hành . Ngài phụ giúp Cha xứ Lộc Hưng về mọi mặt đạo đức . Vào
những giờ rảnh rỗi, Ngài còn đạp xích lô. Năm 1977 Ngài được Tổng Giám mục Sài
Gòn sai đi lao động Nông trường Phạm Văn Cội II (3 năm) sau đó vẫn
tiếp tục giúp Giáo xứ Lộc Hưng.
* Ngày 29 –
06 – 1987, Ngài được Thụ phong Linh mục do Đức Tổng Giám mục Phao lô Nguyễn Văn
Bình đặt tay tại Vương cung Thánh đường Sài gòn.
* Tháng 7 –
1987 Ngài được bổ nhiệm làm phụ tá GX Phú Bình, Hạt Phú Thọ Hòa, sau đó Ngài phụ
trách GX Vĩnh Hòa ( 08 tháng )
*
Năm 1991
Ngài được sai về làm phụ tá GX Bình Thuận, Hạt Bình An
* Tháng 03 –
1991 Ngài được bổ nhiệm làm quyền Chánh xứ Bình Thuận, Hạt Bình An.
*
Ngày 10 –
07 – 1992 Ngài nhận chức Chánh xứ Bình Đông, Hạt Bình An.
*
Đầu năm
1994 khởi công xây dựng Thánh đường GX Bình Đông, Hạt Bình An.
*
Tháng 05 –
1995 Khánh thành dựng Thánh đường GX Bình Đông, Hạt Bình An.
*
Ngày 26 –
03 – 2000 Ngài nhận chức Chánh xứ Giáo xứ An Nhơn, Hạt Xóm Mới.
Trong hơn 22 năm cuộc đời Linh mục Ngài
nuôi được 02 người con làm Linh mục:
+ Linh mục Giuse Nguyễn Đức
Trí - Chánh xứ Trung Mỹ Tây, Hạt Hóc
Môn.
+ Linh mục Đaminh Trần Trung
Kiên Chánh xứ Châu Nam,
Hạt Hóc Môn.
Ngoài ra còn có Thầy
Quang hiện đang theo học năm thứ năm tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn và một
số quý tu sĩ hiện đang tu tại các dòng.
Vào lúc
03 giờ 05 phút ngày 06 – 08 – 2009 Ngài được Chúa gọi về khi đang phụ trách tại
Giáo xứ An Nhơn, và đã được an táng tại nghĩa trang An Dưỡng Viện Phát Diệm Gò
Vấp.
..................